Nước thải được tạo ra từ những chất lỏng tồn tại
trong rác thải khi nó ngấm vào rác hoặc nước mưa qua những điều kiện thời tiết
thuận lợi. Nước thải bao gồm các chất hữu cơ và vô cơ khác nhau do vậy có thể bị
cản trở hoặc không thể xử lý được. Một phần quan trọng trong việc duy trì, bảo
quản việc lọc nước thải đó chính là việc xử lý bằng những phương pháp đúng cách
tránh gây ô nhiễm mô trường đất và bề mặt nước xung quanh.
Nếu nước thải có một chất hoặc đặc tính khác loại,
nó có thể bị biến đổi theo sự biến đổi của thời tiết,
giai đoạn biến đổi này sẽ được tăng cường trong suốt thời kì mưa và giảm sút
trong điều kiện khô, sự cô đặc của chất thải có thể thay đổi đột ngột qua sự tồn
tại của bất kì vùng nước thải nào. Dẫn đến kết quả là không có vùng nước thải ô
nhiễm nào tồn tại mãi mãi theo thời gian và cũng không có vùng nước thải nào lại
giống hệt nhau.
Nhà máy xử lý nước thải
Trong nước thải có thể gồm nhiều các thành phần hữu
cơ và vô cơ khác nhau thứ mà tiêu biểu có thể gây ra quá trình trì hoãn hoặc
không thể xử lý trong nước thải. Sự đòi hỏi tập trung cao của khí O2, kết hợp với
BOD, nitrogen, phenols, thuốc trừ sâu, dung môi và các kim loại nặng đều tồn tại
chung trong hệ thống này.
Công nghệ xử lý nước thải chia làm 2 bước cơ bản đó
là sinh học và vật lý. Trong các hệ thống lớn hơn và sự phụ thuộc vào tiêu chí, mục tiêu cao hơn
chính là sự kết hợp của cả 2 phương pháp
này, thứ mà thường được sự dụng hơn.
Xử lý điển hình tiêu biểu nhất của xử lý sinh học
chính là xử lý chất cặn bã, nước cống, rãnh đã được hoạt hóa. Đó là một quá
trình giảm sự phát triển của các chất thải bằng việc sử dụng hệ thống háo khí cực
nhỏ giúp cho việc phân hủy các chất ô nhiễm có trong nước thải, Với quy ước xử
lý chất cặn, nước thải sẽ được làm thông khí trong một bể chứa mở với máy khuếch
tán hoặc máy thông khí.
Nước thải cũng được xử lý hiệu quả bằng quá trình quay
công tắc tơ sinh học (RBC) đó là 1 quá trình sinh học bao gồm 2 đĩa mài (bản) lớn
có trục xuyên tâm và trục đồng tâm, những vòng quay chuyển động chậm, nhịp
nhàng trong một bể chứa bằng betong. Trong suốt quá trình quay, khoảng 40% diện
tích bề mặt bị ngập trong nước thải. sự hồi chuyển và sự tiếp xúc tiếp theo để
oxygen cho phép các sinh vật sinh sôi nảy nở, tăng số lượng và tạo thành một tầng
chứa mỏng của khối sinh vật. sự hoạt động
với số lượng của sinh vật này gây ra sự phân hủy sinh học của các chất ô nhiễm
hữu cơ, cắt giảm sự dư thừa với một tốc độ ổn định và sau đó được xử lý qua hệ
thông RBC để loại bỏ chất dư thừa trong một bể lắng ( làm sạch).
Kích hoạt hệ thống hấp thụ khí cacbon cũng được dùng
như một phương pháp xử lý nước thải cho việc loại bỏ các chất hữu cơ hòa tan.
Tuy nhiên đó là một trong số những phương pháp có chi phí cao nhất và yêu cầu
việc kết hợp của những công nghệ xử lý khác nhau để thu được hiệu quả như mong
muốn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét